Độ võng là gì? Các công bố khoa học về Độ võng
Độ võng là một thuật ngữ trong võ thuật, đặc biệt là trong võ thuật MMA (Mixed Martial Arts) và Muay Thai, để chỉ mức độ rung lắc của một đối thủ sau khi bị đán...
Độ võng là một thuật ngữ trong võ thuật, đặc biệt là trong võ thuật MMA (Mixed Martial Arts) và Muay Thai, để chỉ mức độ rung lắc của một đối thủ sau khi bị đánh mạnh. Khi một võ sĩ bị đóng cứng và rung lắc sau một cú đánh mạnh, người ta nói rằng đối thủ đó đã bị "độ võng". Độ võng thể hiện mức độ tác động và sự ảnh hưởng của cú đánh lên cơ thể võ sĩ.
Độ võng là một hiện tượng xảy ra khi một võ sĩ bị giật, rung lắc hoặc mất cân bằng sau khi nhận một cú đánh mạnh. Đây là kết quả của lực tác động lớn từ cú đánh, khiến cơ thể không thể duy trì ổn định và truyền đạt được tin hiệu điều chỉnh đúng đắn.
Khi một võ sĩ bị độ võng, có thể thấy những dấu hiệu như rung đầu, mất cân bằng, dừng lại hoặc giảm tốc độ chuyển động, và thậm chí có thể gục ngã hoặc mất ý thức tạm thời. Điều này thường xảy ra khi đầu võ sĩ bị va chạm mạnh, nhận được cú đấm hoặc cú đá vào vùng nhạy cảm như hàm, hàm răng, hốc mắt hoặc trán.
Độ võng trong võ thuật có thể gây nguy hiểm cho võ sĩ, vì nó làm suy giảm sức mạnh, sự nhạy bén và khả năng phản xạ của họ. Nếu không được xử lý và phục hồi kịp thời, võ sĩ có thể trở nên dễ bị tấn công và dễ chấn thương hơn.
Đối với các võ sĩ chuyên nghiệp, độ võng là một yếu tố quan trọng mà huấn luyện viên và huấn luyện viên cần quan tâm. Phục hồi sau độ võng là quá trình để phục hồi sức mạnh, cân bằng và sự tập trung sau khi bị rung động. Điều này có thể bao gồm các biện pháp như nghỉ ngơi, chăm sóc sức khỏe, chế độ ăn uống và kỹ thuật tập luyện phù hợp.
Trong một số trận đấu võ thuật, nếu một võ sĩ bị độ võng nặng, trọng tài hoặc bác sĩ có thể quyết định chấm dứt trận đấu để đảm bảo an toàn cho võ sĩ đó.
Khi một võ sĩ bị đánh và gặp độ võng, hệ thần kinh trên cơ thể của họ trở thành mục tiêu chính. Cú đánh mạnh có thể gây ra một số hiện tượng như:
1. Giật mạnh (Knockout): Đây là hiện tượng khi võ sĩ mất ý thức ngay lập tức sau khi nhận một cú đánh mạnh vào hàm, hàm răng hoặc hốc mắt. Mất ý thức có thể kéo dài từ vài giây đến vài phút và võ sĩ cần thời gian để hồi phục.
2. Rung lắc (Stun): Đây là hiện tượng khi võ sĩ mất cân bằng, rung đầu và có thể ngừng lại hoặc giảm tốc độ chuyển động ngay sau khi nhận một cú đánh mạnh. Trong thời gian hiện tượng này xảy ra, võ sĩ có thể trở nên dễ bị tấn công và có thể bị knock-out nếu đối thủ tấn công tiếp.
3. Mất cân bằng: Cú đánh mạnh có thể làm mất cân bằng và làm cho võ sĩ không thể điều chỉnh và duy trì vị trí cơ thể. Điều này khiến võ sĩ trở nên dễ dàng bị đánh ngã hoặc tấn công.
4. Mất tập trung: Cú đánh mạnh có thể làm mất tập trung và làm suy giảm sự nhạy bén của võ sĩ. Võ sĩ có thể không thể đọc và phản ứng đúng đắn với các cú đánh tiếp theo từ đối thủ.
Độ võng có thể ảnh hưởng không chỉ đến khả năng chiến đấu của võ sĩ, mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe toàn diện của họ. Nếu võ sĩ bị độ võng quá nhiều lần hoặc một lần nhưng rất mạnh, họ có thể gặp các vấn đề về sức khỏe như chấn thương não, mất trí nhớ và các vấn đề về thần kinh.
Việc phục hồi sau độ võng là rất quan trọng để đảm bảo an toàn và hiệu suất của võ sĩ. Võ sĩ cần được kiểm tra y tế và nghỉ ngơi đủ thời gian để cho phép cơ thể hồi phục. Chế độ ăn uống và giấc ngủ đúng cũng quan trọng để tăng cường quá trình phục hồi. Ngoài ra, võ sĩ cần tuân thủ các quy tắc về an toàn và bảo vệ trong quá trình tập luyện và thi đấu để giảm nguy cơ bị độ võng.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "độ võng":
Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu (NAFLD) là nguyên nhân chính gây ra bệnh gan trên toàn thế giới. Chúng tôi đã ước lượng tỉ lệ hiện mắc, phát sinh, tiến triển và kết quả của NAFLD và viêm gan nhiễm mỡ không do rượu (NASH) trên toàn cầu. PubMed/MEDLINE đã được tìm kiếm từ năm 1989 đến 2015 với các thuật ngữ liên quan đến dịch tễ học và tiến triển của NAFLD. Các trường hợp loại trừ bao gồm các nhóm bị lựa chọn (các nghiên cứu chỉ bao gồm người béo phì hoặc tiểu đường hoặc trẻ em) và không có dữ liệu về tiêu thụ rượu hoặc các bệnh gan khác. Tỉ lệ phát sinh của ung thư biểu mô tế bào gan (HCC), xơ gan, tử vong chung và tử vong liên quan đến gan đều được xác định. NASH yêu cầu chẩn đoán bằng mô học. Tất cả các nghiên cứu đã được ba nhà điều tra độc lập rà soát. Phân tích được phân tầng theo khu vực, kỹ thuật chẩn đoán, chỉ định sinh thiết và dân số nghiên cứu. Chúng tôi sử dụng mô hình các tác động ngẫu nhiên để cung cấp các ước lượng điểm (khoảng tin cậy 95% [CI]) về tỉ lệ hiện mắc, phát sinh, tỉ lệ tử vong và tỉ lệ phát sinh, đồng thời mối liên hệ phân tích theo nhóm con để giải thích dị biệt. Trong số 729 nghiên cứu, có 86 nghiên cứu được bao gồm với cỡ mẫu 8.515.431 từ 22 quốc gia. Tỉ lệ hiện mắc NAFLD toàn cầu là 25,24% (CI 95%: 22,10-28,65), với tỉ lệ cao nhất ở Trung Đông và Nam Mỹ và thấp nhất ở Châu Phi. Các bệnh đồng mắc chuyển hóa liên quan đến NAFLD bao gồm béo phì (51,34%; CI 95%: 41,38-61,20), đái tháo đường loại 2 (22,51%; CI 95%: 17,92-27,89), rối loạn mỡ máu (69,16%; CI 95%: 49,91-83,46), tăng huyết áp (39,34%; CI 95%: 33,15-45,88), và hội chứng chuyển hóa (42,54%; CI 95%: 30,06-56,05). Tỉ lệ tiến triển xơ hóa và tốc độ tiến triển trung bình hàng năm trong NASH lần lượt là 40,76% (CI 95%: 34,69-47,13) và 0,09 (CI 95%: 0,06-0,12). Tỉ lệ phát sinh HCC trong số bệnh nhân NAFLD là 0,44 trên 1.000 người-năm (phạm vi, 0,29-0,66). Tử vong do gan và tử vong chung trong NAFLD và NASH lần lượt là 0,77 trên 1.000 (phạm vi, 0,33-1,77) và 11,77 trên 1.000 người-năm (phạm vi, 7,10-19,53) và 15,44 trên 1.000 (phạm vi, 11,72-20,34) và 25,56 trên 1.000 người-năm (phạm vi, 6,29-103,80). Tỉ lệ rủi ro phát sinh đối với tử vong do gan và tử vong chung cho NAFLD lần lượt là 1,94 (phạm vi, 1,28-2,92) và 1,05 (phạm vi, 0,70-1,56).
▪ Tóm tắt Chương này tổng quan các nghiên cứu gần đây về động lực, niềm tin, giá trị và mục tiêu, tập trung vào tâm lý học phát triển và giáo dục. Các tác giả chia chương này thành bốn phần chính: lý thuyết tập trung vào kỳ vọng thành công (lý thuyết tự hiệu quả và lý thuyết kiểm soát), lý thuyết tập trung vào giá trị nhiệm vụ (lý thuyết tập trung vào động lực nội tại, tự quyết định, dòng chảy, sở thích và mục tiêu), lý thuyết tích hợp kỳ vọng và giá trị (lý thuyết qui kết, mô hình kỳ vọng-giá trị của Eccles và cộng sự, Feather, và Heckhausen, và lý thuyết tự trọng), và lý thuyết tích hợp động lực và nhận thức (các lý thuyết xã hội nhận thức về tự điều chỉnh và động lực, công trình của Winne & Marx, Borkowski và cộng sự, Pintrich và cộng sự, cùng các lý thuyết động lực và ý chí). Các tác giả kết thúc chương này bằng một thảo luận về cách tích hợp các lý thuyết về tự điều chỉnh và mô hình kỳ vọng-giá trị của động lực và gợi ý hướng đi mới cho các nghiên cứu tương lai.
\n Một loại kháng huyết thanh polyclonal rất cụ thể từ thỏ, nhắm vào cachectin/yếu tố hoại tử khối u (TNF) ở chuột, đã được chuẩn bị. Khi chuột BALB/c được miễn dịch thụ động bằng kháng huyết thanh hoặc globulin miễn dịch tinh khiết, chúng được bảo vệ khỏi tác động gây tử vong của nội độc tố lipopolysaccharide do
Khả năng của tình trạng sức khỏe tự đánh giá trong việc dự đoán tỷ lệ tử vong đã được kiểm tra bằng dữ liệu từ Nghiên cứu Theo dõi Dịch tễ học NHANES-I (NHEFS), được thực hiện từ năm 1971-1984. Mẫu nghiên cứu bao gồm những người tham gia NHANES-I từ 25-74 tuổi (N = 6,440) mà dữ liệu từ một cuộc kiểm tra sức khỏe toàn diện tại cuộc phỏng vấn ban đầu và tình trạng sống sót tại thời điểm theo dõi đều có sẵn. Tình trạng sức khỏe tự đánh giá được xác định qua câu hỏi duy nhất, "Bạn có cho rằng tình trạng sức khỏe của bạn nói chung là xuất sắc, rất tốt, tốt, bình thường hay kém?" Các phân tích nguy cơ tỷ lệ cho thấy rằng, sau khi loại bỏ mối liên hệ với các chẩn đoán y tế dựa trên cuộc kiểm tra sức khỏe, các yếu tố nhân khẩu học và hành vi liên quan đến sức khỏe, tình trạng sức khỏe tự đánh giá vào Thời điểm 1 có mối liên hệ với tỷ lệ tử vong trong giai đoạn 12 năm theo dõi ở nam giới trung niên, nhưng không thấy ở nam giới cao tuổi hoặc nữ giới ở bất kỳ lứa tuổi nào.
Một nghiên cứu về vòng đời hoàn chỉnh của cá đã được thực hiện đối với 17α‐ethinylestradiol (EE2) sử dụng cá đầu béo, Pimephales promelas. Phôi mới được thụ tinh (<24 giờ tuổi) được tiếp xúc với năm nồng độ của EE2 (0,2, 1,0, 4,0, 16, và 64 ng/L danh nghĩa) trong điều kiện dòng chảy liên tục trong 305 ngày ở nhiệt độ 25 ± 1°C. Nồng độ phơi nhiễm được xác minh bằng phóng xạ 14C‐EE2 và được hỗ trợ bởi phản ứng miễn dịch phóng xạ, và giá trị đo trung bình đạt ≥70% danh nghĩa. Trong pha trưởng thành F0 đến 301 ngày sau sinh, nồng độ không gây hiệu ứng quan sát (NOECs) cho sự phát triển, sống sót và sinh sản (dưới dạng sản xuất trứng) đều ≥ 1,0 ng/L. Các giá trị NOEC cho sự thành công của việc nở của phôi F1 và sự sống sót của ấu trùng (sau 28 ngày sinh) đều ≥ 1,0 ng/L. Mặc dù có những thay đổi có thể quan sát được về mặt thống kê trong sự phát triển của F1 ở 0,2 ng/L, những thay đổi này không được coi là có ý nghĩa sinh học khi so sánh với dữ liệu kiểm soát lịch sử. Cá đực tiếp xúc với EE2 ở nồng độ 4,0 ng/L không phát triển các đặc điểm sinh dục phụ bình thường; trong khi đó, những con cái giả định tiếp xúc với mức này của EE2 vẫn có thể sinh sản khi kết đôi với cá đực không tiếp xúc với EE2. Nghiên cứu mô học của cá F0 không có hóa trị, 0,2- và 1-ng/L sau 56 ngày sinh chỉ ra tỷ lệ giới tính cái:đực khoảng 50:50 (không có tình trạng ovatestes trong nhóm kiểm soát), trong khi cá tiếp xúc với EE2 ở 4,0 ng/L trong 56 ngày sinh có tỷ lệ cái:đực là 84:5 (với ovatestes ở 11% cá). Sau 172 ngày sinh, không có mô tinh hoàn nào được quan sát thấy ở bất kỳ con cá nào tiếp xúc với EE2 ở 4,0 ng/L. Vào thời điểm cùng lúc, mức vitellogenin trong huyết tương đã tăng đáng kể ở cá tiếp xúc với EE2 ở 16 ng/L. Sự thiếu phát triển phân biệt giới tính xảy ra ở cá đực ở nồng độ ≥4,0 ng/L. Xét đến các dữ liệu này, nồng độ không gây hiệu ứng có hại quan sát được nói chung được coi là 1,0 ng/L.
Các chủng
Đã phân lập được một loại vi khuẩn có khả năng chuyển hóa atrazine ở nồng độ rất cao (>1,000 ppm) từ một khu vực tràn thuốc diệt cỏ. Sinh vật này được phân biệt bằng cách quan sát các vùng tan trên đĩa thạch chỉ thị chứa 1,000 ppm atrazine. Nghiên cứu phân loại chi tiết đã xác định sinh vật này là một chủng Pseudomonas, ký hiệu là ADP, không giống với các loài hiện đang được biết đến. Chủng Pseudomonas sp. ADP sử dụng atrazine như nguồn nitơ duy nhất. Các tế bào lơ lửng không phát triển cũng chuyển hóa atrazine nhanh chóng; chẳng hạn, 9 x 10 (mũ 9) tế bào trên mỗi ml đã phân giải 100 ppm atrazine trong 90 phút. Atrazine đã được chuyển hóa thành hydroxyatrazine, các chất chuyển hóa phân cực, và carbon dioxide. Khi sử dụng atrazine được gắn nhãn đều [(mũ 14)C], 80% hoạt tính phóng xạ đã phóng thích dưới dạng (mũ 14)CO (dưới 2). Dữ liệu này chỉ ra rằng vòng triazine đã được khoáng hóa hoàn toàn. Việc phân lập và đặc điểm hóa chủng Pseudomonas sp. ADP có thể góp phần vào các nỗ lực xử lý sinh học atrazine, đặc biệt ở các môi trường chứa mức độ thuốc trừ sâu rất cao."
Ruxolitinib là một chất ức chế Janus kinase (JAK) (JAK1/JAK2) đã cho thấy sự vượt trội hơn so với giả dược và liệu pháp tốt nhất có sẵn (BAT) trong các nghiên cứu Controlled Myelofibrosis Study với điều trị bằng thuốc uống ức chế JAK (COMFORT). COMFORT-II là một nghiên cứu pha 3 ngẫu nhiên (2:1), mở tại những bệnh nhân bị xơ tủy; những bệnh nhân được phân ngẫu nhiên vào nhóm BAT có thể chuyển sang ruxolitinib khi bệnh tiến triển theo định nghĩa của giao thức hoặc sau kết thúc điểm chính, làm phức tạp so sánh dài hạn. Vào tuần thứ 48, 28% (41/146) bệnh nhân được phân ngẫu nhiên vào ruxolitinib đạt được giảm ⩾35% khối lượng lách (điểm chính) so với không có bệnh nhân nào ở BAT (
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10