Độ võng là gì? Các công bố khoa học về Độ võng

Độ võng là một thuật ngữ trong võ thuật, đặc biệt là trong võ thuật MMA (Mixed Martial Arts) và Muay Thai, để chỉ mức độ rung lắc của một đối thủ sau khi bị đán...

Độ võng là một thuật ngữ trong võ thuật, đặc biệt là trong võ thuật MMA (Mixed Martial Arts) và Muay Thai, để chỉ mức độ rung lắc của một đối thủ sau khi bị đánh mạnh. Khi một võ sĩ bị đóng cứng và rung lắc sau một cú đánh mạnh, người ta nói rằng đối thủ đó đã bị "độ võng". Độ võng thể hiện mức độ tác động và sự ảnh hưởng của cú đánh lên cơ thể võ sĩ.
Độ võng là một hiện tượng xảy ra khi một võ sĩ bị giật, rung lắc hoặc mất cân bằng sau khi nhận một cú đánh mạnh. Đây là kết quả của lực tác động lớn từ cú đánh, khiến cơ thể không thể duy trì ổn định và truyền đạt được tin hiệu điều chỉnh đúng đắn.

Khi một võ sĩ bị độ võng, có thể thấy những dấu hiệu như rung đầu, mất cân bằng, dừng lại hoặc giảm tốc độ chuyển động, và thậm chí có thể gục ngã hoặc mất ý thức tạm thời. Điều này thường xảy ra khi đầu võ sĩ bị va chạm mạnh, nhận được cú đấm hoặc cú đá vào vùng nhạy cảm như hàm, hàm răng, hốc mắt hoặc trán.

Độ võng trong võ thuật có thể gây nguy hiểm cho võ sĩ, vì nó làm suy giảm sức mạnh, sự nhạy bén và khả năng phản xạ của họ. Nếu không được xử lý và phục hồi kịp thời, võ sĩ có thể trở nên dễ bị tấn công và dễ chấn thương hơn.

Đối với các võ sĩ chuyên nghiệp, độ võng là một yếu tố quan trọng mà huấn luyện viên và huấn luyện viên cần quan tâm. Phục hồi sau độ võng là quá trình để phục hồi sức mạnh, cân bằng và sự tập trung sau khi bị rung động. Điều này có thể bao gồm các biện pháp như nghỉ ngơi, chăm sóc sức khỏe, chế độ ăn uống và kỹ thuật tập luyện phù hợp.

Trong một số trận đấu võ thuật, nếu một võ sĩ bị độ võng nặng, trọng tài hoặc bác sĩ có thể quyết định chấm dứt trận đấu để đảm bảo an toàn cho võ sĩ đó.
Khi một võ sĩ bị đánh và gặp độ võng, hệ thần kinh trên cơ thể của họ trở thành mục tiêu chính. Cú đánh mạnh có thể gây ra một số hiện tượng như:

1. Giật mạnh (Knockout): Đây là hiện tượng khi võ sĩ mất ý thức ngay lập tức sau khi nhận một cú đánh mạnh vào hàm, hàm răng hoặc hốc mắt. Mất ý thức có thể kéo dài từ vài giây đến vài phút và võ sĩ cần thời gian để hồi phục.

2. Rung lắc (Stun): Đây là hiện tượng khi võ sĩ mất cân bằng, rung đầu và có thể ngừng lại hoặc giảm tốc độ chuyển động ngay sau khi nhận một cú đánh mạnh. Trong thời gian hiện tượng này xảy ra, võ sĩ có thể trở nên dễ bị tấn công và có thể bị knock-out nếu đối thủ tấn công tiếp.

3. Mất cân bằng: Cú đánh mạnh có thể làm mất cân bằng và làm cho võ sĩ không thể điều chỉnh và duy trì vị trí cơ thể. Điều này khiến võ sĩ trở nên dễ dàng bị đánh ngã hoặc tấn công.

4. Mất tập trung: Cú đánh mạnh có thể làm mất tập trung và làm suy giảm sự nhạy bén của võ sĩ. Võ sĩ có thể không thể đọc và phản ứng đúng đắn với các cú đánh tiếp theo từ đối thủ.

Độ võng có thể ảnh hưởng không chỉ đến khả năng chiến đấu của võ sĩ, mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe toàn diện của họ. Nếu võ sĩ bị độ võng quá nhiều lần hoặc một lần nhưng rất mạnh, họ có thể gặp các vấn đề về sức khỏe như chấn thương não, mất trí nhớ và các vấn đề về thần kinh.

Việc phục hồi sau độ võng là rất quan trọng để đảm bảo an toàn và hiệu suất của võ sĩ. Võ sĩ cần được kiểm tra y tế và nghỉ ngơi đủ thời gian để cho phép cơ thể hồi phục. Chế độ ăn uống và giấc ngủ đúng cũng quan trọng để tăng cường quá trình phục hồi. Ngoài ra, võ sĩ cần tuân thủ các quy tắc về an toàn và bảo vệ trong quá trình tập luyện và thi đấu để giảm nguy cơ bị độ võng.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "độ võng":

Dịch tễ học toàn cầu về bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu - Đánh giá meta về tỉ lệ hiện mắc, tỉ lệ phát sinh và kết quả
Hepatology - Tập 64 Số 1 - Trang 73-84 - 2016

Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu (NAFLD) là nguyên nhân chính gây ra bệnh gan trên toàn thế giới. Chúng tôi đã ước lượng tỉ lệ hiện mắc, phát sinh, tiến triển và kết quả của NAFLD và viêm gan nhiễm mỡ không do rượu (NASH) trên toàn cầu. PubMed/MEDLINE đã được tìm kiếm từ năm 1989 đến 2015 với các thuật ngữ liên quan đến dịch tễ học và tiến triển của NAFLD. Các trường hợp loại trừ bao gồm các nhóm bị lựa chọn (các nghiên cứu chỉ bao gồm người béo phì hoặc tiểu đường hoặc trẻ em) và không có dữ liệu về tiêu thụ rượu hoặc các bệnh gan khác. Tỉ lệ phát sinh của ung thư biểu mô tế bào gan (HCC), xơ gan, tử vong chung và tử vong liên quan đến gan đều được xác định. NASH yêu cầu chẩn đoán bằng mô học. Tất cả các nghiên cứu đã được ba nhà điều tra độc lập rà soát. Phân tích được phân tầng theo khu vực, kỹ thuật chẩn đoán, chỉ định sinh thiết và dân số nghiên cứu. Chúng tôi sử dụng mô hình các tác động ngẫu nhiên để cung cấp các ước lượng điểm (khoảng tin cậy 95% [CI]) về tỉ lệ hiện mắc, phát sinh, tỉ lệ tử vong và tỉ lệ phát sinh, đồng thời mối liên hệ phân tích theo nhóm con để giải thích dị biệt. Trong số 729 nghiên cứu, có 86 nghiên cứu được bao gồm với cỡ mẫu 8.515.431 từ 22 quốc gia. Tỉ lệ hiện mắc NAFLD toàn cầu là 25,24% (CI 95%: 22,10-28,65), với tỉ lệ cao nhất ở Trung Đông và Nam Mỹ và thấp nhất ở Châu Phi. Các bệnh đồng mắc chuyển hóa liên quan đến NAFLD bao gồm béo phì (51,34%; CI 95%: 41,38-61,20), đái tháo đường loại 2 (22,51%; CI 95%: 17,92-27,89), rối loạn mỡ máu (69,16%; CI 95%: 49,91-83,46), tăng huyết áp (39,34%; CI 95%: 33,15-45,88), và hội chứng chuyển hóa (42,54%; CI 95%: 30,06-56,05). Tỉ lệ tiến triển xơ hóa và tốc độ tiến triển trung bình hàng năm trong NASH lần lượt là 40,76% (CI 95%: 34,69-47,13) và 0,09 (CI 95%: 0,06-0,12). Tỉ lệ phát sinh HCC trong số bệnh nhân NAFLD là 0,44 trên 1.000 người-năm (phạm vi, 0,29-0,66). Tử vong do gan và tử vong chung trong NAFLD và NASH lần lượt là 0,77 trên 1.000 (phạm vi, 0,33-1,77) và 11,77 trên 1.000 người-năm (phạm vi, 7,10-19,53) và 15,44 trên 1.000 (phạm vi, 11,72-20,34) và 25,56 trên 1.000 người-năm (phạm vi, 6,29-103,80). Tỉ lệ rủi ro phát sinh đối với tử vong do gan và tử vong chung cho NAFLD lần lượt là 1,94 (phạm vi, 1,28-2,92) và 1,05 (phạm vi, 0,70-1,56). Kết luận: Khi đại dịch béo phì toàn cầu thúc đẩy các tình trạng chuyển hóa, gánh nặng lâm sàng và kinh tế của NAFLD sẽ trở nên to lớn. (Hepatology 2016;64:73–84)

#Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu (NAFLD) #viêm gan nhiễm mỡ không do rượu (NASH) #dịch tễ học toàn cầu #tỉ lệ hiện mắc #tỉ lệ phát sinh #ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) #tử vong liên quan đến gan #bệnh đồng mắc chuyển hóa #xơ hóa #rối loạn chuyển hóa.
Niềm Tin, Giá Trị, và Mục Tiêu Động Lực
Annual Review of Psychology - Tập 53 Số 1 - Trang 109-132 - 2002

▪ Tóm tắt  Chương này tổng quan các nghiên cứu gần đây về động lực, niềm tin, giá trị và mục tiêu, tập trung vào tâm lý học phát triển và giáo dục. Các tác giả chia chương này thành bốn phần chính: lý thuyết tập trung vào kỳ vọng thành công (lý thuyết tự hiệu quả và lý thuyết kiểm soát), lý thuyết tập trung vào giá trị nhiệm vụ (lý thuyết tập trung vào động lực nội tại, tự quyết định, dòng chảy, sở thích và mục tiêu), lý thuyết tích hợp kỳ vọng và giá trị (lý thuyết qui kết, mô hình kỳ vọng-giá trị của Eccles và cộng sự, Feather, và Heckhausen, và lý thuyết tự trọng), và lý thuyết tích hợp động lực và nhận thức (các lý thuyết xã hội nhận thức về tự điều chỉnh và động lực, công trình của Winne & Marx, Borkowski và cộng sự, Pintrich và cộng sự, cùng các lý thuyết động lực và ý chí). Các tác giả kết thúc chương này bằng một thảo luận về cách tích hợp các lý thuyết về tự điều chỉnh và mô hình kỳ vọng-giá trị của động lực và gợi ý hướng đi mới cho các nghiên cứu tương lai.

#Động lực #niềm tin #giá trị #mục tiêu #tâm lý học phát triển và giáo dục #kỳ vọng-giá trị #tự hiệu quả #lý thuyết kiểm soát #động lực nội tại #tự quyết định #dòng chảy #sở thích #tự trọng #tự điều chỉnh #ý chí.
Miễn Dịch Thụ Động Chống Lại Cachectin/Yếu Tố Hoại Tử Khối U Bảo Vệ Chuột Khỏi Tác Động Gây Tử Vong Của Nội Độc Tố
American Association for the Advancement of Science (AAAS) - Tập 229 Số 4716 - Trang 869-871 - 1985

\n Một loại kháng huyết thanh polyclonal rất cụ thể từ thỏ, nhắm vào cachectin/yếu tố hoại tử khối u (TNF) ở chuột, đã được chuẩn bị. Khi chuột BALB/c được miễn dịch thụ động bằng kháng huyết thanh hoặc globulin miễn dịch tinh khiết, chúng được bảo vệ khỏi tác động gây tử vong của nội độc tố lipopolysaccharide do Escherichia coli sản xuất. Tác dụng phòng ngừa phụ thuộc vào liều lượng và hiệu quả nhất khi kháng huyết thanh được tiêm trước khi tiêm nội độc tố. Kháng huyết thanh chống lại cachectin/TNF không làm giảm phản ứng sốt của động vật đã được xử lý bằng nội độc tố, và liều lượng rất cao của nội độc tố có thể vượt qua tác dụng bảo vệ. Liều tử vong trung bình của nội độc tố ở chuột được xử lý trước bằng 50 microlít kháng huyết thanh đặc biệt cao hơn khoảng 2,5 lần so với liều tử vong trung bình cho các chuột đối chứng được tiêm huyết thanh không miễn dịch. Dữ liệu cho thấy rằng cachectin/TNF là một trong những trung gian chính của tác động gây tử vong của nội độc tố.\n

#cachectin #yếu tố hoại tử khối u #miễn dịch thụ động #kháng huyết thanh #nội độc tố #E. coli #hiệu quả bảo vệ #động vật gặm nhấm #liều gây tử vong #trung gian hóa học.
Tổng hợp Thromboxane Kháng Aspirin và Nguy cơ Nhồi Máu Cơ Tim, Đột Quỵ, hoặc Tử Vong Tim Mạch ở Bệnh Nhân Có Nguy Cơ Cao Gặp Các Sự Kiện Tim Mạch
Ovid Technologies (Wolters Kluwer Health) - Tập 105 Số 14 - Trang 1650-1655 - 2002

Bối cảnh Chúng tôi đã nghiên cứu liệu kháng aspirin, được định nghĩa là sự không thành công của việc ngăn chặn sản xuất thromboxane, có gia tăng nguy cơ xảy ra các sự kiện tim mạch ở một quần thể có nguy cơ cao hay không.

Phương pháp và Kết quả Mẫu nước tiểu cơ bản đã được thu thập từ 5529 bệnh nhân Canada tham gia trong nghiên cứu Heart Outcomes Prevention Evaluation (HOPE). Sử dụng thiết kế case-control lồng nhau, chúng tôi đo nồng độ 11-dehydro thromboxane B 2 trong nước tiểu, một dấu hiệu của việc tạo thromboxane in vivo, ở 488 trường hợp được điều trị bằng aspirin và đã bị nhồi máu cơ tim, đột quỵ, hoặc tử vong do tim mạch trong 5 năm theo dõi, và ở 488 đối chứng có cùng giới tính và tuổi, cũng nhận aspirin nhưng không có sự kiện nào xảy ra. Sau khi điều chỉnh cho sự khác biệt cơ bản, tỷ lệ của kết cục tổng hợp nhồi máu cơ tim, đột quỵ hoặc tử vong do tim mạch tăng với mỗi phân tứ tăng lên của 11-dehydro thromboxane B 2 , với bệnh nhân trong phân tứ trên có nguy cơ cao hơn 1.8 lần so với những người trong phân tứ dưới (OR, 1.8; 95% CI, 1.2 đến 2.7; P =0.009). Những người ở phân tứ trên có nguy cơ nhồi máu cơ tim cao hơn 2 lần (OR, 2.0; 95% CI, 1.2 đến 3.4; P =0.006) và nguy cơ tử vong do tim mạch cao hơn 3.5 lần (OR, 3.5; 95% CI, 1.7 đến 7.4; P <0.001) so với những người trong phân tứ dưới.

Kết luận Ở những bệnh nhân được điều trị bằng aspirin, nồng độ 11-dehydro thromboxane B 2 trong nước tiểu dự đoán nguy cơ trong tương lai của nhồi máu cơ tim hoặc tử vong do tim mạch. Những phát hiện này nâng cao khả năng rằng mức 11-dehydro thromboxane B 2 cao trong nước tiểu có thể xác định những bệnh nhân tương đối kháng aspirin và có thể hưởng lợi từ những liệu pháp chống kết tập tiểu cầu bổ sung hoặc các điều trị khác hiệu quả hơn trong việc ngăn chặn sự sản xuất hoặc hoạt động của thromboxane in vivo.

#Thromboxane #Kháng Aspirin #Nhồi Máu Cơ Tim #Đột Quỵ #Tử Vong Tim Mạch #Sự Kiện Tim Mạch #Nghiên Cứu HOPE #Bệnh Nhân Nguy Cơ Cao
Tình trạng sức khỏe tự đánh giá và tỷ lệ tử vong trong Nghiên cứu Theo dõi Dịch tễ học NHANES-I.
American journal of public health - Tập 80 Số 4 - Trang 446-452 - 1990

Khả năng của tình trạng sức khỏe tự đánh giá trong việc dự đoán tỷ lệ tử vong đã được kiểm tra bằng dữ liệu từ Nghiên cứu Theo dõi Dịch tễ học NHANES-I (NHEFS), được thực hiện từ năm 1971-1984. Mẫu nghiên cứu bao gồm những người tham gia NHANES-I từ 25-74 tuổi (N = 6,440) mà dữ liệu từ một cuộc kiểm tra sức khỏe toàn diện tại cuộc phỏng vấn ban đầu và tình trạng sống sót tại thời điểm theo dõi đều có sẵn. Tình trạng sức khỏe tự đánh giá được xác định qua câu hỏi duy nhất, "Bạn có cho rằng tình trạng sức khỏe của bạn nói chung là xuất sắc, rất tốt, tốt, bình thường hay kém?" Các phân tích nguy cơ tỷ lệ cho thấy rằng, sau khi loại bỏ mối liên hệ với các chẩn đoán y tế dựa trên cuộc kiểm tra sức khỏe, các yếu tố nhân khẩu học và hành vi liên quan đến sức khỏe, tình trạng sức khỏe tự đánh giá vào Thời điểm 1 có mối liên hệ với tỷ lệ tử vong trong giai đoạn 12 năm theo dõi ở nam giới trung niên, nhưng không thấy ở nam giới cao tuổi hoặc nữ giới ở bất kỳ lứa tuổi nào.

#sức khỏe tự đánh giá #tỷ lệ tử vong #theo dõi dịch tễ học #nghiên cứu sức khỏe #NHANES-I
Tác động của estrogen tổng hợp 17α‐ethinylestradiol đối với vòng đời của cá đầu béo (<i>Pimephales promelas</i>)
Environmental Toxicology and Chemistry - Tập 20 Số 6 - Trang 1216-1227 - 2001
Tóm tắt

Một nghiên cứu về vòng đời hoàn chỉnh của cá đã được thực hiện đối với 17α‐ethinylestradiol (EE2) sử dụng cá đầu béo, Pimephales promelas. Phôi mới được thụ tinh (<24 giờ tuổi) được tiếp xúc với năm nồng độ của EE2 (0,2, 1,0, 4,0, 16, và 64 ng/L danh nghĩa) trong điều kiện dòng chảy liên tục trong 305 ngày ở nhiệt độ 25 ± 1°C. Nồng độ phơi nhiễm được xác minh bằng phóng xạ 14C‐EE2 và được hỗ trợ bởi phản ứng miễn dịch phóng xạ, và giá trị đo trung bình đạt ≥70% danh nghĩa. Trong pha trưởng thành F0 đến 301 ngày sau sinh, nồng độ không gây hiệu ứng quan sát (NOECs) cho sự phát triển, sống sót và sinh sản (dưới dạng sản xuất trứng) đều ≥ 1,0 ng/L. Các giá trị NOEC cho sự thành công của việc nở của phôi F1 và sự sống sót của ấu trùng (sau 28 ngày sinh) đều ≥ 1,0 ng/L. Mặc dù có những thay đổi có thể quan sát được về mặt thống kê trong sự phát triển của F1 ở 0,2 ng/L, những thay đổi này không được coi là có ý nghĩa sinh học khi so sánh với dữ liệu kiểm soát lịch sử. Cá đực tiếp xúc với EE2 ở nồng độ 4,0 ng/L không phát triển các đặc điểm sinh dục phụ bình thường; trong khi đó, những con cái giả định tiếp xúc với mức này của EE2 vẫn có thể sinh sản khi kết đôi với cá đực không tiếp xúc với EE2. Nghiên cứu mô học của cá F0 không có hóa trị, 0,2- và 1-ng/L sau 56 ngày sinh chỉ ra tỷ lệ giới tính cái:đực khoảng 50:50 (không có tình trạng ovatestes trong nhóm kiểm soát), trong khi cá tiếp xúc với EE2 ở 4,0 ng/L trong 56 ngày sinh có tỷ lệ cái:đực là 84:5 (với ovatestes ở 11% cá). Sau 172 ngày sinh, không có mô tinh hoàn nào được quan sát thấy ở bất kỳ con cá nào tiếp xúc với EE2 ở 4,0 ng/L. Vào thời điểm cùng lúc, mức vitellogenin trong huyết tương đã tăng đáng kể ở cá tiếp xúc với EE2 ở 16 ng/L. Sự thiếu phát triển phân biệt giới tính xảy ra ở cá đực ở nồng độ ≥4,0 ng/L. Xét đến các dữ liệu này, nồng độ không gây hiệu ứng có hại quan sát được nói chung được coi là 1,0 ng/L.

#Cá đầu béo; Pimephales promelas; Estrogen tổng hợp; 17α‐ethinylestradiol; Sinh sản cá; Nghiên cứu vòng đời; NOEC; Phát triển sinh dục phụ; Vitellogenin; Tỷ lệ giới tính
Nhiễm khuẩn máu do Klebsiella pneumoniae có khả năng sản xuất Carbapenemase: Giảm tỷ lệ tử vong bằng các phác đồ kháng sinh kết hợp và vai trò của Carbapenems
Antimicrobial Agents and Chemotherapy - Tập 58 Số 4 - Trang 2322-2328 - 2014
TÓM TẮT

Các chủng Klebsiella pneumoniae có khả năng sản xuất carbapenemase (CP-Kp) hiện nằm trong số những tác nhân gây bệnh trong bệnh viện quan trọng nhất. Một nghiên cứu quan sát đã được tiến hành từ năm 2009 đến 2010 tại hai bệnh viện nằm trong khu vực có tỷ lệ mắc cao (Athens, Hy Lạp). Mục đích là (i) đánh giá kết quả lâm sàng của bệnh nhân bị nhiễm khuẩn máu do CP-Kp, (ii) xác định yếu tố dự báo tử vong, và (iii) đánh giá các phác đồ kháng sinh khác nhau được sử dụng. Tổng cộng 205 bệnh nhân bị nhiễm khuẩn máu do CP-Kp đã được xác định: 163 (79,5%) bị nhiễm loại KPC hoặc KPC và VIM, và 42 bị nhiễm loại sản xuất VIM. Trong điều trị quyết định, 103 bệnh nhân nhận được liệu pháp kết hợp (hai hoặc nhiều thuốc có hoạt tính), 72 nhận được liệu pháp đơn (một thuốc có hoạt tính), và 12 nhận được liệu pháp không có thuốc hoạt tính. Còn lại 18 bệnh nhân đã tử vong trong vòng 48 giờ sau khi khởi phát nhiễm khuẩn máu. Tỷ lệ tử vong mọi nguyên nhân sau 28 ngày là 40%. Tỷ lệ tử vong cao hơn đáng kể đã được quan sát thấy ở những bệnh nhân điều trị bằng liệu pháp đơn so với những người điều trị bằng liệu pháp kết hợp (44,4% so với 27,2%; P = 0,018). Tỷ lệ tử vong thấp nhất (19,3%) được quan sát thấy ở những bệnh nhân điều trị bằng các phác đồ kết hợp có chứa carbapenem. Trong mô hình nguy cơ tỷ lệ Cox, bệnh cuối cùng tử vong (tỷ lệ nguy cơ [HR], 3,25; khoảng tin cậy 95% [CI], 1,51 đến 7,03; P = 0,003), sự hiện diện của các bệnh nền tử vong nhanh (HR, 4,20; 95% CI, 2,19 đến 8,08; P < 0,001), và sốc nhiễm trùng (HR, 2,15; 95% CI, 1,16 đến 3,96; P = 0,015) là những yếu tố dự báo độc lập liên quan đến tử vong. Liệu pháp kết hợp có liên quan mạnh mẽ đến sống sót (HR tử vong cho liệu pháp đơn so với kết hợp, 2,08; 95% CI, 1,23 đến 3,51; P = 0,006), chủ yếu do hiệu quả của các phác đồ có chứa carbapenem.

#Klebsiella pneumoniae #carbapenemase #tỷ lệ tử vong #nhiễm khuẩn máu #phác đồ kháng sinh #liệu pháp kết hợp #vật chủ bệnh viện #carbapenem.
Phân Lập và Đặc Điểm Hóa Chủng Pseudomonas sp. Phân Giải Thuốc Diệt Cỏ s-Triazine Atrazine.
Applied and Environmental Microbiology - Tập 61 Số 4 - Trang 1451-1457 - 1995

Đã phân lập được một loại vi khuẩn có khả năng chuyển hóa atrazine ở nồng độ rất cao (>1,000 ppm) từ một khu vực tràn thuốc diệt cỏ. Sinh vật này được phân biệt bằng cách quan sát các vùng tan trên đĩa thạch chỉ thị chứa 1,000 ppm atrazine. Nghiên cứu phân loại chi tiết đã xác định sinh vật này là một chủng Pseudomonas, ký hiệu là ADP, không giống với các loài hiện đang được biết đến. Chủng Pseudomonas sp. ADP sử dụng atrazine như nguồn nitơ duy nhất. Các tế bào lơ lửng không phát triển cũng chuyển hóa atrazine nhanh chóng; chẳng hạn, 9 x 10 (mũ 9) tế bào trên mỗi ml đã phân giải 100 ppm atrazine trong 90 phút. Atrazine đã được chuyển hóa thành hydroxyatrazine, các chất chuyển hóa phân cực, và carbon dioxide. Khi sử dụng atrazine được gắn nhãn đều [(mũ 14)C], 80% hoạt tính phóng xạ đã phóng thích dưới dạng (mũ 14)CO (dưới 2). Dữ liệu này chỉ ra rằng vòng triazine đã được khoáng hóa hoàn toàn. Việc phân lập và đặc điểm hóa chủng Pseudomonas sp. ADP có thể góp phần vào các nỗ lực xử lý sinh học atrazine, đặc biệt ở các môi trường chứa mức độ thuốc trừ sâu rất cao."

#Pseudomonas sp.; atrazine; xử lý sinh học; khoáng hóa; thuốc diệt cỏ; vòng triazine; tính phân cực; chuyển hóa.
Giám Sát Sức Khỏe Công Trình tại Trung Quốc Đại Lục: Đánh Giá và Xu Hướng Tương Lai
Structural Health Monitoring - Tập 9 Số 3 - Trang 219-231 - 2010
Công nghệ giám sát sức khỏe công trình (SHM) đã được ứng dụng thành công để hiểu rõ các tải trọng, điều kiện môi trường và hành vi của công trình chịu tác động của các yếu tố khác nhau thông qua việc giải quyết một bài toán ngược. Công nghệ cảm biến là một phần quan trọng của SHM. Trong bài báo này, sự phát triển của công nghệ cảm biến tiên tiến và các loại cảm biến tại Trung Quốc Đại Lục trong thập kỷ qua, như công nghệ cảm biến sợi quang, công nghệ cảm biến gốm piezoelectric (PZT) dựa trên lan truyền sóng, công nghệ cảm biến thông minh dựa trên xi măng, và công nghệ phát hiện ăn mòn, đã được xem xét một cách chặt chẽ. Ngoài ra, bài báo cũng tóm lược ứng dụng của các công nghệ SHM trong kỹ thuật động đất, kỹ thuật gió và đánh giá hiệu suất trong suốt vòng đời công trình, cùng những tiến bộ đạt được tại Trung Quốc Đại Lục. Những thách thức và xu hướng tương lai trong phát triển công nghệ cảm biến và SHM cũng được đề xuất trong bài báo này.
#giám sát sức khỏe công trình #cảm biến #công nghệ cảm biến #Trung Quốc đại lục #kỹ thuật động đất #kỹ thuật gió #ăn mòn #hiệu suất vòng đời #PZT #sợi quang #xi măng thông minh.
Kết quả dài hạn từ nghiên cứu COMFORT-II, thử nghiệm giai đoạn 3 của ruxolitinib so với liệu pháp tốt nhất có sẵn cho bệnh xơ tủy
Leukemia - Tập 30 Số 8 - Trang 1701-1707 - 2016
Tóm tắt

Ruxolitinib là một chất ức chế Janus kinase (JAK) (JAK1/JAK2) đã cho thấy sự vượt trội hơn so với giả dược và liệu pháp tốt nhất có sẵn (BAT) trong các nghiên cứu Controlled Myelofibrosis Study với điều trị bằng thuốc uống ức chế JAK (COMFORT). COMFORT-II là một nghiên cứu pha 3 ngẫu nhiên (2:1), mở tại những bệnh nhân bị xơ tủy; những bệnh nhân được phân ngẫu nhiên vào nhóm BAT có thể chuyển sang ruxolitinib khi bệnh tiến triển theo định nghĩa của giao thức hoặc sau kết thúc điểm chính, làm phức tạp so sánh dài hạn. Vào tuần thứ 48, 28% (41/146) bệnh nhân được phân ngẫu nhiên vào ruxolitinib đạt được giảm ⩾35% khối lượng lách (điểm chính) so với không có bệnh nhân nào ở BAT (P<0.001). Trong số 78 bệnh nhân (53.4%) trong nhánh ruxolitinib đạt được giảm ⩾35% khối lượng lách bất kỳ lúc nào, xác suất duy trì đáp ứng là 0.48 (khoảng tin cậy (CI), 0.35–0.60) sau 5 năm (trung vị, 3.2 năm). Trung vị thời gian sống toàn bộ chưa được đạt ở nhánh ruxolitinib và là 4.1 năm ở nhánh BAT. Có giảm 33% nguy cơ tử vong với ruxolitinib so với BAT theo phân tích ý định điều trị (tỷ lệ nguy cơ (HR) = 0.67; CI 95%, 0.44–1.02; P = 0.06); HR điều chỉnh chéo là 0.44 (CI 95%, 0.18–1.04; P = 0.06). Không có sự gia tăng không mong đợi về tỷ lệ mắc phải tác dụng phụ với thời gian dùng lâu hơn. Phân tích cuối cùng này cho thấy rằng các giảm khối lượng lách với ruxolitinib được duy trì với liệu pháp tiếp tục và có thể liên quan đến lợi ích sống còn.

#ruxolitinib #Janus kinase ức chế #xơ tủy #COMFORT-II #khối lượng lách #tỷ lệ sống còn #phân tích giai đoạn 3 #nguy cơ tử vong #tác dụng phụ
Tổng số: 170   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10